Tặng tập thể lớp Văn – Anh khóa 11, cho những ngày ôn tập miệt mài để cùng hẹn nhau đường đến Ngày vinh quang!
Posted in Chuyên Văn, tagged Văn Anh K 11 on Tháng Tư 9, 2012| Leave a Comment »
Tặng tập thể lớp Văn – Anh khóa 11, cho những ngày ôn tập miệt mài để cùng hẹn nhau đường đến Ngày vinh quang!
Posted in Chuyên Văn, Văn khoá 11 on Tháng Hai 8, 2011| Leave a Comment »
>
những hồn thơ hoang mang, nặng trĩu một nỗi sầu cho suốt một thời kì
rất buồn và cũng rất xôn xao. Với Huy Cận, những nỗi buồn ấy như triền
miên, day dứt hơn bao giờ hết khi tiếng của điệu hồn thiên cổ cất lên,
làm cho mạch sâu ngàn năm chợt da diết, chơi vơi.
Đã có một thời kì, thơ Việt Nam ” buồn và xôn xao đến thế”. Đó là thời
kì những năm đầu thế kỉ hai mươi, khi bộ mặt thật của “tự do, bình
đẳng, bác ái” lộ rõ trước hiện thực, có những con người hoang mang,
mất phương hướng và tưởng chừng như chỉ biết lẩn quẩn trong vòng bế
tắc. Nhưng không, họ đã đứng lên, ngạo nghễ khẳng định tâm tư, suy
nghĩ của mình, dẫu đôi khi yếu đuối rầu rĩ. Những gương mặt với phong
cách độc đáo lần lượt xuất hiện. Những hồn thơ tình, thơ điên…có khi
xôn xao, khi cuồn cuộn, khi dữ dội bão táp. Nhưng tất cả chỉ nằm trong
một chữ tôi bơ vơ, sâu vô cùng tận. Và trong chiều sâu ấy, Huy Cận
đã cùng chúng ta nếm trải và ảo não qua thời gian. Nhà thơ không say
đắm tình yêu, không vội vàng tận hưởng cuộc sống như Xuân Diệu, cũng
không điên cuồng đau thương chất ngất như Hàn Mặc Tử mà cũng chẳng
“nhà quê” như Nguyễn Bính…nỗi buồn “mang mang thiên cổ sầu” như ngọn
lửa âm ỉ cháy cho những rung động với quê hương, với con người và với
cuộc đời. Và độc đáo hơn, ngay trong cách lựa chọn và cách thể hiện
của Huy Cận cũng mang một nét riêng biệt, một tâm hồn lúc nào cũng
trải ra, sẵn sàng “bâng khuâng” với trời rộng, và sông dài, với nỗi
sầu thân thế, nhân thế bao quanh. Và “Tràng Giang” cũng là một trong
những chuỗi cảm hứng cho nỗi buồn triền miên, bất tận. Cả bài thơ là
sự kết hợp giữa chất cổ điển Đường thi trong cảnh vật và chất hiện đại
trong sư cảm nhận của thi sĩ làm bật lên một cái tôi giữa dòng đời –
cái tôi Huy Cận, hoàn toàn riêng biệt.
Được gợi tứ từ vẻ đẹp nên thơ của con sông Hồng, những câu thơ của
Tràng Giang mang theo ngọn sóng ấy, lăn tăn chảy mãi, bất tận. Đó là
sóng của con sông dài hun hút chảy đến cuối trời hay là con sóng trong
lòng đang gợi lên, vời vợi, mênh mang? Ấn tượng của những câu thơ đầu
là một không gian tràng giang sóng nước:
“Sóng gợn Tràng Giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng”
Một không gian mở ra đậm chất Đường Thi. Đó là sự tập trung cao độ của
cái rộng lớn mênh mông, cái tĩnh lặng lan tỏa trong công gian vô
tận.Cũng là ngọn sóng theo dòng nước trôi về, nhưng ngọn sóng Tràng
Giang không hề cuồn cuộn, dữ dội hay lăn tăn, mà lại là “điệp điệp”.
Phải chăng đó là cái “điệp điệp” từ trong lòng người trĩu nặng ra
cảnh? Không gian sóng nước chợt rợn ngợp, vô cùng hơn khi hình ảnh con
thuyền đơn độc, lẻ loi xuất hiện. Chiếc thuyền nhỏ bé lênh đênh trôi
dạt theo dòng chảy chẳng biết đi đâu về đâu. Nhưng cô đơn, quạnh quẽ
hơn khi thuyền và nước lại di chuyển trái chiều nhau ” thuyền về nước
lại”. Giữa không gian ấy, hình ảnh con thuyền nổi nênh cùng “mái nước
song song”, làm đậm thêm cho cái mênh mông vô cùng tận của không gian,
cái nhỏ bé hữu hạn của con người trong dòng đời ngược xuôi cũng như
gợi lên nỗi sầu trăm ngả. Sầu vô cùng, sầu tứ phía, ngàn mây. Thấp
thoáng trong những hình ảnh ấy là bòng dáng của Đường Thi gợi lên cái
hồn buồn Đông Á từ lâu vẫn ngấm ngầm trong cõi đất Việt trĩu nặng.
“Sóng”, “thuyền” làm nên nỗi sầu trăm ngả. Nhưng “củi một cành khô”
lại làm nên một cảm giác chênh chao theo cuộc đời heo hút. Hình ảnh
“củi” đã nhỏ bé, đã mong manh, nhưng “củi một cành khô” lại càng nhỏ
bé, càng mong manh đến tưởng chừng như mất hút trong những con sóng
nối tiếp nhau tạo nên cảm giác lạc lõng, bâng khuâng. Sự lẻ loi buồn
tủi đến bây giờ mới lên đỉnh điểm. Đẹp nhưng buồn và cô đơn, bức tranh
thiên nhiên trong khổ thơ là minh chứng rõ nét cho một cái tôi trữ
tình mang theo nhiều trăn trở, cái tôi muốn vượt ra vòng lẩn quẩn u
tối nhưng lại bị nỗi sầu thời cuộc đè nặng khiến cho bơ vơ, lạc lõng.
Nếu như bức tranh thiên nhiên ở khổ thơ đầu mênh mông, điệp điệp thì
khổ thơ thứ hai, nỗi buồn ấy chợt sâu lắng, lặng lẽ nhiều hơn:
“Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Không gian vốn rộng nay càng rộng thêm ra. Vẻ đẹp của bờ bãi mở ra hút
tầm mắt bên cạnh những cồn cát nhấp nhô, vô tận. Tiếng lòng “Đâu tiếng
làng xa vãn chợ chiều” chút hoài niệm về tiếng chợ quê ấm áp, âm vang.
Những cồn cát “lơ thơ” rời rạc, những tiếng “đìu hiu” gợi về không
gian xa vắng mênh mông mang theo cái lạnh rùng mình, cái hoang mang
cho nỗi niềm cô đơn. Nhưng tiếng chợ chiều giờ đây chỉ là những tiếng
ồn ã không đầy đủ vọng về từ xa xăm, không đủ sức làm cho cái tĩnh
lặng của không gian tan biến. Và ánh nhìn của nhà thơ bắt gặp cái nhìn
của buổi chiều:
Nắng xuống trời lên sâu chót vót
Sông dài trời rộng bến cô liêu”
Vẻ đẹp thiên nhiên với đầy đủ chiều kích, màu sắc hiện lên rõ ràng.
“Nắng xuống” – “trời lên” – hai hình ảnh vận động trái ngược nhau làm
cho không gian thêm được chiều sâu. Cái nắng thãm cuối ngày mang theo
một nỗi buồn hoài cổ, nỗi buồn sâu lắng trước cảnh thiên nhiên đẹp nao
lòng. Cảm xúc cứ lướt nhẹ nhàng, để rồi đọng lại trong hình ảnh “bến cô
liêu” của sông dài trời rông. Ta tự hỏi tại sao tác giả không dùng bất
kì từ nào khác để diễn tả bến bờ mà lại là “bến cô liêu”? Bởi chỉ có
“cô liêu” mới đủ sức lột tả hết đượcn hững gì hoang vắng , lạnh lẽo,
trống trải, cô đơn trong hồn người.
“Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng”
Nỗi buồn vì tiếng chợ chiều đã vãn, không gian dường như chỉ thêm cô
độc hơn khi chẳng có một dấu hiệu nào báo hiệu cho sự sống. Hoàn toàn
tĩnh lặng, những cánh bèo nối liền nhau trong tâm tưởng “đi đâu về
đâu” được sắp đặt khéo léo như ý niệm về thân phận “bèo dạt mây trôi”
của kiếp người. Đằng au đó là nỗi băn khoăn trăn trở của cả một lớp
người bế tắc. “Hàng nối hàng” là sự đặc tả về mật độ nhưng đồng thời đó
cũng là cảm giác miên man dằng dặc . Hai câu thơ tiếp theo là sự vô
vọng tìm về phía ánh sáng. Không một chuyến đò cũng không một chiếc
cầu, chẳng còn mối dây liên hệ, cũng chẳng còn niềm thân mật nào bám
víu vào tâm hồn cũng như cảnh vật. Đến lúc này, những gam màu mới đậm
thêm, tô rõ cho biooir chiều tà những gam màu buồn lặng lẽ. Khoảnh
khắc ánh xanh của bờ bãi và nét vàng phôi pha xuất hiện như chính là
lúc con người chìm đắm trong nỗi buồn thăm thẳm vô bờ.
Khép lại bài thơ là một khổ thơ tập trung những nét thiên nhiên và nét
tâm tình con người. Ở đó là cả một nỗi buồn thân thế mênh mông vô
cùng:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Ánh hoàng hôn hắt lên trong những đám mây dày đặc tạo nên một màu bạc
tráng lệ, hùng vĩ. Những lớp mây chất chồng lên nhau như một sự ngưng
đọng, sự ngập đầy dần của nỗi niềm con người. Cánh chim bơ vơ càng thể
hiện nỗi thấm thía, cô đơn và sự lạc lõng, bé nhỏ của mình. Cánh chim
chở bao nhiêu khát vọng muốn vượt lên trên nhưng dường như trước bóng
chiều nặng trĩu, u tịch, cánh chim ấy không thể kéo nổi sức nặng bầu
trời và dần mất đà, “sa” nhanh theo bóng chiều. Cảm giác chênh chao
một lần nữa xuất hiện gợi lên biết bao nhiêu cảm xúc mới khác nhau để
rồi nổi bật lên trong nỗi sầu là tình yêu quê hương da diết khôn
nguôi:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Đến đây, dòng tràng giang của đất trời đã hòa nhịp vào dòng “tràng
giang” của lòng người. Nhịp chảy vẫn cứ vô tình nối tiếp đều nhau thêm
triền miên, bất tận. Hai chữ “dợn dợn” thật đắt, vừa là dợn dợn trong
tâm cảnh và cũng vừa là dợn dợn trong tâm hồn. Tràng Giang là một
trong những tứ thơ hay và sâu lắng nhất thể hiện cái tôi trữ tình của
Huy Cận, cái tôi buồn sầu trăm ngả, sẵn sàng nôn nao trước cảnh vật,
chỉ chực chờ trào ra nơi đầu ngọn bút:
“Đêm mưa làm nhớ không gian
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la…
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng nghe ta buồn buồn”
(Buồn đêm mưa)
Một nỗi cô đơn quạnh quẽ đọng trong không gian thấm đẫm mưa lạnh. Cảnh
vật sầu một nỗi đơn sơ, hoang vắng nhưng cũng chính là nỗi sầu từ
trong chính tâm can tỏa ra ngoài. Ở câu thơ thứ hai, tác giả sử dụng
hai từ ngữ cùng trường nghĩa “lạnh” – ” hàn”, sự lặp lại không hề vô
tâm, vô tình mà là một sự lặp lại một cách có chủ đích như để nhắc
nhớ, để làm đậm thêm cái lạnh lẽo, cô quạnh trong không gian cũng như
trong lòng. Một nỗi bao la bao trùm lấy con người. Mưa đã buồn, lòng
người còn buồn hơn. Sầu não, muộn phiền đến tê tái, những giọt sầu cứ
thế mà rơi rớt, mà “nằng nặng”, “buồn buồn”. Ta có cảm giác như không
gian đang trĩu xuống, đọng một nỗi niềm thời gian.
Một nỗi buồn thấm thía, một nỗi buồn không hề bất chợt mà xuyên suốt
trong cả thời kỳ sáng tác của Huy Cận mang theo cả nỗi ám ảnh của sông
dài trời rộng, quán chật đèo cao:
“Ngập ngừng mép núi quanh co
Lưng đèo quán dựng, mưa lò mái ngang..
Vi vu gió hút nẻo vàng
Một trời thu rộng mấy hàng mây nao
(Đẹp xưa)
Không gian lưng chừng đèo mở ra cái vô cùng tận của vũ trụ, thời gian.
Những cảnh vật ở đây sao heo hút, bâng khuâng, lòng người sao ngập
ngừng buồn tủi. Mưa gió cứ vô tình lướt ngang, trời mây vẫn cứ vô tình
trôi đâu hay trong tâm hồn con người đang chợt dâng lên nỗi sầu chất
ngất. Những tâm tư đóng kín lại, chỉ còn nỗi giá lạnh băn khoăn chực
chờ trong tâm hồn Huy Cận, chỉ muốn quên và buồn riêng mình mà thôi.
Nhưng cũng không hẳn vì thế mà cái hồn nao nao của Huy Cận chỉ nặng
sầu cô đơn. Vẫn còn đó những ước vọng, khát khao về một tình yêu trong
sáng, về một mối giao cảm thiết tha, dẫu mỏng manh thầm lặng:
“Áo trắng đơn sơ, mộng trắng trong.
Hôm xưa em đến mắt như lòng.
Nở bừng ánh sáng. Em đi đên,
Gót ngọc dồn hương, bước tỏa hồng”
(Áo trắng)
Một hình ảnh trong sáng, thánh thiện bừng lên giữa không gian thời
cuộc u tối, vô tình. Một giấc mộng giản đơn, mong manh đi tìm tấm lòng
đồng cảm với tình yêu, tình người. Nét bừng sáng của tà áo tinh khôi
như làm nhạc điệu của nỗi sầu thiên cổ chợt lạc đi, để rung động cho
một tình cảm sâu kín. Bước chân e thẹn kia chợt làm cho không gian u
tối bao quanh tâm hồn nhà thơ chợt bừng sáng, ấm áp. Chàng Huy Cận say
sưa viết, say sưa kiếm tìm cho một tình cảm chan chứa, nồng nàn.Nhưng
cuộc đời tréo ngoe, những tâm tư chợt quay lưng lại giữa tiếng gọi
thiết tha, tiếng than thở khóc thương cho mối tình nhân thế:
“Đời tàn rơi cùng sao rụng canh thâu
Và trăng lu xế nửa mái tình sầu,
Gió than thở biết mấy lời van vỉ?”
(Tình tự)
Niềm giao cảm đã mất, tình yêu không bền, chết đi trong tiếng thở dài
của cô đơn, trong sự lạnh lùng vô cảm của cuộc đời, để rồi khúc nhạc
sầu có lúc ngỡ như dịu đi chợt bùng lên, réo rắt sầu thương:
“Ai chết đó? Nhạc sầu chi lắm thế!
Chiều mồ côi, đời rét mướt ngoài đường”
(Nhạc sầu)
Câu hỏi cất lên như vô tình, như muốn quên đi tiếng lòng mình đang
buồn thương đến thắt nghẹn. Lời tự vấn cho nỗi niềm riêng tư hay là tự
vấn chính cuộc đời bạc bẽo?Tình riêng chẳng bền lâu, tình người chẳng
còn là nơi để bám víu, những khúc nhạc sầu từ cõi lòng cứ thế ngân
lên, rợn ngợp. Trời chiều bâng khuâng, “mồ côi” như chính thân phận
của những con người hoang mang không biết lấy niềm tin nơi đâu để đỡ
đần. Nói thay cho những cõi lòng ấy, thương người nhưng cũng là để
thương chính mình, Huy Cận nhận ra dù có muốn vượt ra những giới hạn
tối tăm nhưng không thể. Biết làm sao được khi tất cả các chốn đều
khép kín, vô tình, chỉ còn lại cái “rét mướt” kéo nhịp cùng nhạc sầu
ảo não, cô đơn.
Chẳng cần “nâng khăn lau mắt lệ” mới có thể diễn tả được nỗi cô đơn,
nỗi buồn trong chính tâm hồn mình, trong lòng Huy Cận đã dào dạt nỗi
niềm bâng khuâng. Lặng lẽ, mải miết, ông vẫn đi tìm để được hòa vào
nhịp sống của thế giới nội tâm bên trong lòng người.
Dẫu biết rằng đó là bi lụy, cô đơn, nhưng nỗi sầu của cái tôi trong
thơ Mới nói chung và nhất là thơ Huy Cận nói riêng vẫn dào dạt, đắm
say. Họ vẫn cứ viết bằng tất cả tâm tư, tình cảm, để được nói lên
tiếng nói tha thiết muốn được đón lấy cuộc đời, được sống với khát
vọng và niềm tin của chính mình. Những vần thơ ấy cứ lặng thầm chảy
mãi cho nỗi niềm của cả một thế hệ, một thời đại để rồi sau này chợt
ngân lên như một dấu ấn của thời gian.
Posted in Chuyên Văn on Tháng Mười 15, 2010| Leave a Comment »
Posted in Chuyên Văn on Tháng Mười 14, 2010| Leave a Comment »
Posted in Chuyên Văn on Tháng Chín 18, 2010| Leave a Comment »
Posted in Chuyên Văn on Tháng Chín 18, 2010| Leave a Comment »
Posted in Chuyên Văn on Tháng Chín 18, 2010| Leave a Comment »
Posted in Chuyên Văn on Tháng Chín 10, 2010| Leave a Comment »
Nhà thơ đã thể hiện hình ảnh của người bà qua sự hồi nhớ:
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh ở Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn….
Đó là tất cả những cơ cực, vất vả mà người bà đã tảo tần nuôi đứa cháu. Trong cái đói, cái khổ của thời xưa, nổi bật lên trên ấy chính là hình ảnh lam lũ của bà. “Bà mò cua xúc tép”, đó là những việc làm hàng ngày để kiếm cái ăn chăm lo cho con cháu. Ẩn hiện trong câu thơ hình ảnh bà còng lưng, nhẫn nại mò cua bắt ốc, không quản khó nhọc để niềm vui ánh lên trong những đôi mắt thơ ngây của cháu khi có miếng ăn… Thế nhưng xúc động hơn cả là hình ảnh bà đi gánh chè đêm đêm. Cái khó cái khổ đè nặng trên đôi vai gầy của bà, thể hiện trong từng bước chân “thập thững”. Chi tiết đó đủ khắc họa lên được bao nhiêu nhọc nhằn, khó khăn của đời bà. Bước thấp bước cao lần đi trong “những đêm hàn” buốt giá, bà trở nên bé nhỏ, liêu xiêu, nhưng chất đầy sự thương yêu đối với con cháu, để làm nên một sức mạnh có thể chống chọi được với gió đêm, để có thể tiếp tục làm việc nuôi cháu. Bà hiện lên với sự mảnh mai, nhỏ bé nhưng trên đôi vai bà gánh chè rong như gánh cả một gia đình, một tương lai của con cháu. “Mò cua xúc tép”, “gánh chè xanh” là cả một cuộc sống vất vả mưu sinh. Tuy tác giả không nói đến, nhưng hình ảnh người bà hiện lên in đậm dấu thời gian. Một người bà chịu thương chịu khó bền bỉ trong cuộc sống lam lũ, khuya sớm tảo tần. Để rồi từ đó tác giả thể hiện niềm xót xa, ái ngại cho bà. Qua hình ảnh ấy ta nhận ra đâu đó thoáng chút hình ảnh người mẹ thân thương ở thi phẩm Bên kia sông Đuống:
Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong
Bước cao thấp bên bờ tre hun hút
….
…Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ…
Cũng từ trong ướt lạnh sương gió, người mẹ hiền từ với hình ảnh “bước thấp bước cao”, nhọc nhằn trên đôi vai mẹ gánh hàng rong mong kiếm được miếng ăn, tất cả cuộc sống và tương lai của các con phụ thuộc vào gánh hàng rong của mẹ. Không biết bao nhiêu người con sông Đuống đã lớn lên sau gánh hàng rong ấy. Để rồi từ đó hình ảnh người bà, người mẹ hiện lên với đức hi sinh và tấm lòng bao dung to lớn….
…Thế nhưng, nhà thơ nói đến những điều ấy với tâm trạng “Tôi đâu biết…” khắc họa được những nghẹn ngào trong câu nói. Đó là cả một tuổi thơ nghịch ngợm, vô tư và hồn nhiên gắn với những trò chơi, trò đùa nghịch của trẻ con như câu cá, theo bà đi chợ, bắt chim, ăn trộm nhãn, chơi đền, xem lễ… Thế nhưng để cháu được như thế, bà đã phải nhọc nhằn như thế nào. Qua đó thể hiện sự vô tư đến vô tâm, vô tính của người cháu. Phải chăng lúc ấy cháu còn thơ bé để ngẫm đến những cực khổ của bà!
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên, Phật, thánh, thần
cái năm đói, củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng, hương trầm….
“Trong suốt” khắc họa nên sự vô tư, ngây thơ, hồn nhiên của tác giả lúc bé. “Hai bờ hư – thực”, hai thế giới khác nhau. Một thế giới hiện hữu với tất cả tình yêu thương của bà, và thế giới hư ảo, vô thực của những “tiên, Phật, thánh, thần”, những câu chuyện cổ tích… Nhà thơ không sống tất cả vì hiện tại, vì tình thương của bà, mà mải bận mơ về những chuyện hư ảo. Điều đó cho thấy tác giả sống với thế giới hư và thế giới thực lẫn lộn với nhau. Để rồi hai câu thơ sau nhấn mạnh mức độ của sự lẫn lộn ấy: những mùi hương cứ trộn lẫn lại với nhau. Hiện thực khó khăn “năm đói” làm người bà càng phải khổ cực hơn nữa. Cậu bé nhỏ khi ấy chỉ biết vui chơi chứ chưa biết nghĩ đến bà mình, lại không nhận ra giá trị “củ dong riềng luộc sượng” vất vả bà kiếm được, không biết thương bà, vô tâm, vô tính trước nỗi cơ cực của bà… Để rồi sau này, khi tác giả đã lớn, đã trưởng thành, đã nhận ra được tình yêu thương của bà dành cho mình, đã biết thương yêu bà thì bà chỉ còn là nấm cỏ:
Lúc này cháu đã trưởng thành trong nhận thức về cuộc đời, không còn sống trong niềm tin về sự gần gũi, tương đồng giữa hai thế giới thực và ảo, mà đã “đi lính”, đã biết cầm súng chống lại cái ác cái xấu. Quê hương vẫn còn đấy, những địa danh vẫn còn lưu giữ những kỉ niệm tuổi thơ, “dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi”, nhưng hình bóng của bà thì không còn nữa. Sự thức tỉnh gắn liền với sự ân hận bởi lúc cháu biết thương bà thì cơ hội đền đáp đã không còn. Chính sự tỉnh ngộ ấy khiến cho tình thương bà càng tức tưởi xót xa vì tất cả đã quá muộn màng…
Thật vậy, trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có điều đáng để hối tiếc. Nhưng quan trọng nhất phải biết sống sao cho trọn vẹn với tất cả, nhất là những người thân yêu của mình. Đừng để khi có tình thương ấy mà không nhận ra, không biết gìn giữ, không biết trân trọng với những gì mình đang có cũng như để những thương yêu ta phải buồn lòng; mà mải mê mong muốn, theo đuổi những giá trị xa vời để rồi khi nó mất đi ta mới biết thương, biết quý thì tất cả cũng đã quá trễ, quá muộn…
Tuổi thơ trải dài theo nỗi nhớ, gắn với kí ức và hình ảnh người bà quen thuộc thân thương. Trải qua những biến cố cuộc sống, những đổi thay về không gian và thời gian, nhưng tình yêu của cháu dành cho bà là mãi mãi. Lạnh lùng và có phần thản nhiên trong cách thể hiện, nhưng chất chứa cùng những hình ảnh, giọng điệu là cảm xúc về nơi mà mình đã từng gắn bó, những kỉ niệm mà mình đã trải qua và những nỗi nhớ yêu thương cho bà, để khi tất cả khép lại, ta chợt giật mình nhận ra, hình như có một giọt nước mắt đang rơi giữa cuộc đời…
Posted in Chuyên Văn, Trao đổi on Tháng Một 17, 2010| 1 Comment »
Để post bài cho blog Học Văn, đăng nhập bằng tài khoản của mình, sau đó vào trang chuyenvanlqd.blogspot.com , ở phía trên góc phải của trình duyệt có mục Bài đăng mới, nhấn vào link, sẽ hiện lên khung đăng bài.
Trình tự:
Đặt tiêu đề bài đăng
Đánh máy văn bản (mã Unicode) vào khung bài đăng
Đặt nhãn cho bài đăng (Lưu ý nhãn chính là chuyên mục, có thể chọn theo gợi ý nhãn để đưa vào chuyên mục phù hợp)
Nhấn nút xuất bản
Xem bài đăng
Nếu cần đưa hình ảnh thì bấm vào khung chèn hình ảnh, dán đường dẫn hình ảnh vào từ web (file hình ảnh có đuôi là jpg hay gif) hoặc tải từ máy lên!
Ví dụ:
Cần đưa video thì có thể chọn vị trí chèn trong khung đăng bài, chuyển sang chế độ sọan thảo html, dán mã nhúng vào là có video.
Nếu có sai sót trong quá trình post bài thì bấm vào hình cây bút chì dưới bài để chỉnh sửa.
– Lưu ý: nếu bài gõ trong Word, có thể copy và dán vào bài, sau đó bấm xuất bản, trình duyệt sẽ báo lỗi html, chỉ việc xóa những chỗ trình duyệt đã cảnh báo, đó là các thẻ meta, thẻ link,… là có thể đăng bài. Bằng cách này có thể đưa bài có table vào trong blog.
Chúc các thành viên gửi bài thành công và post nhiều bài đóng góp!
Những người được cấp đặc quyền quản trị có thể chỉnh sửa bài đăng của blog.
Posted in Chuyên Văn on Tháng Mười Hai 9, 2009| Leave a Comment »